Thực hiện
Hướng dẫn số 48-HD/BTGTW, ngày 13/4/2022 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy hướng
dẫn công tác tuyên truyền kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu như sau:
I.
MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
Tôn vinh và tri ân những
công lao, cống hiến, đóng góp của đồng chí Phan Đăng Lưu đối với cách mạng Việt
Nam; khẳng định vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo tiền bối trong sự nghiệp đấu tranh giành độc
lập, tự do của dân tộc, hòa bình, thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc;
bồi đắp niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới đất
nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Thông
qua các hoạt động tuyên truyền, kỷ niệm giúp cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân
hiểu rõ về thân thế, sự nghiệp và nhân cách cao đẹp của đồng chí Phan Đăng Lưu; giáo dục truyền thống yêu nước,
khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc; khích lệ, cổ vũ các tầng lớp Nhân dân, nhất
là thế hệ trẻ, noi gương đồng chí Phan Đăng Lưu và các đồng chí lãnh đạo tiền bối
tiêu biểu của Đảng, tích cực học tập, lao động và công tác, góp phần thực hiện
thắng lợi nghị quyết đại hội Đảng các cấp, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng.
Công
tác tuyên truyền kỷ niệm cần tiến hành bằng các hình thức sinh động, thiết thực,
hiệu quả, có tính giáo dục sâu sắc; kết hợp với tuyên truyền, kỷ niệm các ngày
lễ lớn và các sự kiện chính trị quan trọng của tỉnh, của đất nước, phù hợp trong
bối cảnh phòng, chống dịch COVID-19.
II. NỘI DUNG TUYÊN
TRUYỀN
1.
Cuộc đời, sự nghiệp, quá trình hoạt động cách mạng và công lao, cống hiến to lớn
đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam của đồng chí Phan Đăng
Lưu - một tấm gương sáng ngời về ý chí và tinh thần cách mạng; một nhân cách cộng
sản mẫu mực; người chiến sĩ cộng sản kiên trung, anh hùng, bất khuất; cả cuộc đời
tận trung với nước, tận hiếu với dân, không màng danh lợi.
2.
Khẳng định đồng chí Phan Đăng Lưu là nhà lãnh đạo tài năng, có những đóng góp
quan trọng vào công tác tổ chức xây dựng Đảng và sự nghiệp chung của cách mạng
Việt Nam; sáng suốt trong hoạch định đường lối và giải quyết các vấn đề cụ thể
của cách mạng; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ; là chiến sĩ tiên phong
trên mặt trận báo chí và văn học cách mạng nước nhà.
3.
Những phẩm chất đạo đức cách mạng cao đẹp của đồng chí Phan Đăng Lưu: kiên định
lý tưởng cách mạng, sắt son niềm tin với Đảng, với Nhân dân; luôn trung thành tuyệt đối với chủ
nghĩa Mác - Lênin, với đường lối
cách mạng của Đảng, của Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc; tinh thần say mê, miệt mài học tập, rèn luyện, không ngừng trau dồi tri thức nhằm phục vụ Đảng,
cách mạng, dân tộc, Nhân dân; đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
hết lòng yêu thương đồng đội, đồng chí, đồng bào.
4.
Các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm diễn ra ở các địa phương trong nước, nhất là
trên quê hương Nghệ An.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM
Các cơ quan, đơn vị, địa phương
căn cứ vào tình hình thực tế và diễn biến của dịch bệnh COVID-19, chỉ đạo và tổ
chức các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm phù hợp, thiết thực, hiệu quả, đảm bảo
an toàn:
1.
Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang/cổng thông tin
điện tử; cổ động trực quan.
2.
Tuyên truyền trong hội nghị sinh hoạt thường kỳ của các tổ chức chính trị - xã
hội, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao,…
3.
Phim tài liệu về đồng chí Phan Đăng Lưu.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy
Hướng dẫn tuyên truyền và sao gửi Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 120 năm
Ngày sinh đồng
chí Phan
Đăng Lưu; định hướng, chỉ đạo tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng, hội nghị báo cáo viên, giao ban báo chí,... tuyên truyền sự kiện trong nội
dung Bản tin Thông báo nội bộ, các cổng/trang thông tin điện tử,...
Theo dõi các
hoạt động tuyên truyền, nhất là trên báo chí, Internet,
mạng xã hội và cổ động trực quan để định hướng, chỉ đạo kịp thời.
2. Thường trực các huyện ủy, thị ủy, thành uỷ, đảng ủy: Chỉ đạo cơ quan chuyên môn xây dựng kế hoạch tổ
chức các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu phù hợp với điều kiện cụ thể; chú trọng tuyên
truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, trang/cổng thông tin điện
tử của địa phương, đơn vị; tuyên truyền bằng các tài liệu, ấn phẩm; sinh
hoạt thường kỳ của các tổ chức chính trị - xã hội,… bảo đảm thiết thực,
phù hợp.
3. Sở Thông tin
và Truyền thông: Quản lý các hoạt động thông tin, truyền thông, nhất là việc đăng
tải thông tin trên các báo, đài, tạp chí, trên Internet và mạng xã hội; xử lý
nghiêm các vi phạm, đưa thông tin sai trái, xuyên tạc, không đúng định hướng.
4. Sở Văn hóa và Thể thao: Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, cổ động
trực quan, nhất là trên panô, áp phích, bảng điện tử, tranh ảnh và các hoạt động
văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao,...
5. Các cơ quan
báo chí
Tổ chức tuyên truyền theo định hướng tại mục II của Hướng
dẫn này với nội dung và thời lượng phù
hợp, có ý nghĩa tuyên truyền, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong cán bộ, đảng viên
và các tầng lớp Nhân dân. Tuyên truyền căn cứ vào nguồn thông tin, tư liệu
chính thống do các cơ quan có thẩm quyền cung cấp, phát hành; không khai thác
những sự kiện, nội dung nhạy cảm, những vấn đề còn có ý kiến trái chiều, dễ bị
các thế lực thù địch xuyên tạc, tạo điểm nóng; bám sát định hướng, hướng dẫn
của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, trong trường hợp cần thiết phải thông tin, báo cáo,
xin ý kiến trước khi tuyên truyền.
Đài phát thanh và Truyền hình
tỉnh tổ chức tiếp, phát sóng phim tài liệu.
6. Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh: Chỉ đạo, hướng
dẫn tổ chức tuyên truyền đến cán bộ, hội viên, đoàn viên và Nhân dân về cuộc đời
và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Phan Đăng Lưu.
Tỉnh
Đoàn thanh niên chỉ đạo tổ chức các hình thức tuyên truyền phù hợp cho đoàn
viên, thanh niên; đẩy mạnh các hoạt động giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
V. MỘT SỐ KHẨU HIỆU TUYÊN
TRUYỀN
1. Nhiệt liệt
chào mừng 120 năm Ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu (05/5/1902 - 05/5/2022)!
2. Đồng chí Phan Đăng Lưu - Người chiến sĩ cộng sản kiên trung!
3. Đồng chí Phan Đăng Lưu - Tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời!
4. Đảng Cộng sản
Việt Nam quang vinh muôn năm!
5. Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
6. Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
ĐỀ CƯƠNG
TUYÊN TRUYỀN
Kỷ
niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu,
lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và
cách mạng Việt Nam
(05/5/1902 - 05/5/2022)
I.
KHÁI LƯỢC TIỂU SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐỒNG CHÍ PHAN ĐĂNG LƯU
Đồng chí Phan Đăng Lưu sinh
ngày 05/5/1902 trong một gia đình nhà nho, có truyền
thống yêu nước ở thôn Đông, xã Tràng Thành (nay là xã Hoa
Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An - một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, cách mạng. Thuở nhỏ, vốn thông minh, ham học, Phan Đăng Lưu theo học chữ Hán, sau học chữ Quốc
ngữ và chữ Pháp.
Giai đoạn 1923 - 1924, sau khi tốt nghiệp Trường Canh nông thực hành ở Tuyên
Quang, Phan Đăng Lưu được nhận làm viên chức của Sở Canh nông Bắc Kỳ và công tác tại trạm nghiên cứu tơ tằm ở huyện Thanh Ba, Phú
Thọ. Một năm sau, Phan Đăng Lưu chuyển về làm việc tại Sở Canh nông Nghệ An ở
Vinh và gia nhập Hội Phục Việt - tổ chức sau đó có các tên gọi khác là Hưng
Nam, Việt Nam Cách mạng Đảng, Việt
Nam Cách mạng đồng chí hội, Tân Việt Cách mạng Đảng. Nghi ngờ Phan Đăng Lưu có liên
quan đến các hoạt động chính trị chống Pháp, tháng 6/1927, Khâm sứ Trung Kỳ ra
quyết định thải hồi. Trở về quê hương, Phan Đăng Lưu tiếp tục hoạt động
cách mạng, được Tổng bộ Việt Nam Cách mạng Đảng giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở
tại Yên Thành, Nghệ An.
Tháng 5/1928, Phan Đăng Lưu được điều
động vào Huế tham gia Ban Biên tập Quan Hải Tùng Thư và được bổ sung vào Ban
Thường vụ của Tổng bộ;
Tháng 7/1928, tại Đại hội Tổng bộ Việt
Nam Cách mạng Đảng, được bầu làm Ủy viên phụ trách công tác tuyên huấn;
Cuối tháng 9/1928, được Tổng bộ Tân
Việt cử sang Quảng Châu, Trung Quốc để bàn việc hợp nhất với Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên.
Tháng 9/1929, được cử sang Quảng Châu
lần thứ hai, nhưng khi ở Hải Phòng, do có kẻ phản bội, đồng chí Phan Đăng Lưu bị
mật thám bắt đưa về giam tại Nhà lao Vinh và bị Tòa án Nam triều ở Nghệ An kết
án ba năm tù khổ sai[1], đày lên Nhà tù Buôn Ma Thuột. Trong
tù, Đồng chí đã trở thành đảng viên cộng sản và tham gia Ban lãnh đạo nhà tù. Giữa
năm 1936, được thả và bị đưa về quê nhà quản thúc, nhưng chỉ một thời gian ngắn
Đồng chí đã vào thành phố Huế tìm bắt liên lạc với tổ chức.
Đầu năm 1937, tham gia lập lại Xứ ủy Trung Kỳ, được cử vào ban lãnh đạo
Xứ ủy và tham gia chỉ đạo cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ ở
Trung Kỳ, trực tiếp chỉ đạo cuộc tuyển cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ;
Tháng 9/1937, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp tục tham
gia lãnh đạo Xứ ủy Trung Kỳ;
Tháng 9/1939, được Trung ương phân công phụ trách phong trào các tỉnh
Nam Kỳ;
Từ ngày 6 đến 8/11/1939, tham dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu
bàn về chuyển hướng chiến
lược của Đảng, tiến tới giai đoạn dân tộc giải phóng;
Tháng 7/1940, dự Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ, Đồng chí đề nghị tạm hoãn cuộc
khởi nghĩa và bí mật ra Bắc chuẩn bị cho việc tái lập Ban Chấp hành Trung ương.
Tháng 11/1940, Đồng chí ra Hà Nội họp với Xứ ủy Bắc Kỳ thống nhất tổ chức
Hội nghị tái lập Ban Chấp hành Trung ương;
Từ ngày 6 đến 9/11/1940, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy của Đảng diễn
ra tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), được cử vào Ban Chấp hành Trung ương mới và được
giao nhiệm vụ trở vào Nam truyền đạt ý kiến của Trung ương về hoãn cuộc khởi
nghĩa Nam Kỳ;
Ngày 22/11/1940, khi vừa về tới Sài Gòn, chưa kịp truyền đạt ý kiến của
Trung ương thì bị mật thám Pháp bắt;
Ngày 3/3/1941, bị Tòa án binh của chính quyền thực dân Pháp kết án tử
hình; Ngày 26/8/1941, bị xử bắn tại trường bắn Ngã Ba Giồng, Bà Điểm, Hóc Môn,
tỉnh Gia Định.
Với 39 năm tuổi đời, 16 năm hoạt động cách mạng liên tục, trong đó có hơn
7 năm bị giam cầm trong lao tù đế quốc, đồng chí Phan Đăng Lưu đã cống hiến và
hy sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, trở thành nhà
lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.
II.
NHỮNG ĐÓNG GÓP QUAN TRỌNG CỦA ĐỒNG CHÍ PHAN ĐĂNG LƯU ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP
CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ DÂN TỘC
1. Phan Đăng Lưu - Người thanh niên yêu nước, sớm nhận thức về
con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, tích cực hoạt động cho sự ra đời của Đảng Cộng sản ở Việt Nam
Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, ảnh hưởng
sự giáo dục của gia đình và truyền thống yêu nước quê hương cách mạng, ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường, Phan Đăng Lưu đã ấp ủ hoài bão giúp dân, giúp
nước. Sau khi tốt nghiệp Trường Canh nông thực hành ở Tuyên Quang, vào làm việc
ở Sở Canh nông Bắc Kỳ rồi chuyển sang Sở Canh nông Trung Kỳ và đã sớm nhận ra rằng
một công chức dưới chế độ thực dân không dễ gì làm lợi cho dân, cho nước; Phan
Đăng Lưu quyết định chuyển hướng tập trung vào nghiên cứu các môn khoa học
chính trị - xã hội, coi đó là khởi điểm cho con đường đi mới của mình.
Thời gian này, ở Vinh hình thành Hội Phục Việt
(7/1925) - tổ chức tiền thân của Tân Việt cách mạng Đảng. Được tiếp xúc với một
số thanh niên yêu nước trong tổ chức Phục Việt, như Trần Phú, Hà Huy Tập, Ngô
Đức Diễn,... Phan Đăng Lưu đã đi đến quyết định gia nhập Hội Phục Việt và tích
cực tham gia các hoạt động của Hội, trong đó có phong trào đấu tranh đòi thả cụ
Phan Bội Châu, mở lớp dạy văn hóa cho công nhân, nông dân trong vùng... Đây cũng
là cơ hội để Phan Đăng Lưu đọc và nghiên cứu nhiều sách báo tiến bộ từ nước
ngoài gửi về, như báo Người cùng khổ, báo Nhân đạo, báo Việt
Nam hồn, cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, một
số tác phẩm của Lênin… Nhờ đó, giúp Phan
Đăng Lưu sáng tỏ con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Những chuyển biến trong nhận thức, đặc biệt
là hoạt động cách mạng của Phan Đăng Lưu đã bị chính quyền thực dân nghi ngờ, chỉ
trong mấy tháng, chúng đã chuyển Phan Đăng Lưu đi làm việc ở nhiều địa phương,
như Linh Cảm (Hà Tĩnh), Phú Phong (Bình Định), Di Linh và Đà Lạt (Lâm Đồng). Ở đâu, Phan
Đăng Lưu cũng tổ chức hoạt động yêu nước, chống bọn chủ sự Pháp.
Năm 1927, trở về quê hương, Phan Đăng Lưu tích
cực hoạt động cách mạng, gây dựng cơ sở ngay tại địa phương theo sự phân công
của Tổng bộ, tập hợp bạn bè tiến bộ vào tổ chức. Từ một công chức, Đồng chí đã
trở thành nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp trong tổ chức Tân Việt, được
bầu làm Ủy viên Thường vụ Ban Chấp
hành Trung ương và có nhiều cống hiến to lớn trên các mặt: tham gia hoạch định đường lối, phát triển tổ chức, đào tạo
cán bộ và đặc biệt là góp phần quan trọng vào việc định hướng phát triển Tân
Việt theo đường lối của Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu, Trung
Quốc vào tháng 5/1925.
Cuối năm 1928, Phan Đăng Lưu đi Quảng Châu,
Trung Quốc theo sự phân công
của tổ chức, để bàn việc hợp nhất Tân Việt Cách mạng Đảng với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhưng do điều kiện
khách quan nên chuyến đi không thành công. Khi trở về nước, Phan Đăng Lưu vẫn
đề đạt ý kiến với Tổng bộ Tân Việt, kiên trì vận động hợp nhất hai tổ chức theo
hướng tiến tới thành lập Đảng Cộng sản. Điều này cho thấy Phan Đăng Lưu là một
trong số ít người sớm nhận thức và tích cực đấu tranh cho sự thống nhất tổ chức
và phong trào yêu nước ở Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX.
2. Đồng chí Phan Đăng Lưu - Nhà lãnh đạo tài
năng, góp phần chuyển hướng đúng đắn nhiệm vụ cách mạng qua mỗi giai đoạn lịch
sử, sáng suốt trì hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, có công lớn trong việc tái lập Ban
Chấp hành Trung ương
Giữa năm 1936, sau gần bảy năm bị giam cầm ở
Nhà lao Vinh và Nhà tù Buôn Ma Thuột - một trong những nhà tù (nhà đày) khắc
nghiệt nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, Phan Đăng Lưu được ân xá trở về quê
nhà Nghệ An một thời gian, rồi trở vào Thừa Thiên Huế hoạt động. Đồng chí nhanh
chóng kết nối với các cán bộ Đảng đang hoạt động ở Huế (Nguyễn Chí Diểu, Bùi
San, Tôn Quang Phiệt, Hải Triều…) bước đầu củng cố, hình thành Ban lãnh đạo của
Đảng ở Trung Kỳ. Sau khi liên lạc được với Trung ương Đảng, Đồng chí được Trung
ương chỉ định tham gia Xứ ủy lâm thời Trung Kỳ. Đây là cống hiến đầu tiên của Đồng
chí trong công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Trung Kỳ.
Trong quá trình hoạt động ở Huế, với ưu thế về
vốn chữ Nho, chữ Pháp và tầm nhìn, kinh nghiệm tuyên truyền, thuyết phục, vận
động, tổ chức quần chúng, cùng với quan hệ rộng trong các tầng lớp xã hội, đồng
chí Phan Đăng Lưu đã góp phần quan trọng cùng Xứ ủy Trung Kỳ lãnh đạo phong
trào đấu tranh cách mạng Trung Kỳ giành được nhiều thắng lợi, gây tiếng vang
lớn lúc bấy giờ.
Theo sự phân công của Xứ ủy Trung Kỳ, đồng chí
Phan Đăng Lưu là người chỉ đạo trực tiếp cuộc đấu tranh vào Viện Dân biểu Trung
Kỳ. Đồng chí đã vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng: không gạt bỏ nghị trường
mà lợi dụng nghị trường, không tẩy chay tuyển cử mà tham gia tuyển cử. Trong
cuộc đấu tranh này, Đồng chí đã sử dụng linh hoạt diễn đàn đấu tranh công khai qua
báo chí và văn học nghệ thuật. Kết quả là cuộc đấu tranh vào Viện Dân biểu Trung
Kỳ thắng lợi rực rỡ đến mức tuyệt đối: Tất cả 18 ứng cử viên do Đảng đưa ra
tranh cử đều trúng cử ngay từ vòng đầu và đều nắm các chức vụ quan trọng trong
Viện. Đây là thắng lợi thực sự to lớn, vang dội đầu tiên ở nước ta dưới ách
thống trị của thực dân Pháp.
Tháng 9/1937, Đồng chí được bầu vào Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Trên cương vị mới, Đồng chí đã đóng góp tích cực vào công
tác lãnh đạo và chỉ đạo cuộc đấu tranh cải tổ Viện Dân biểu Trung Kỳ kết hợp
với các cuộc đấu tranh của quần chúng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là
đồng chí Phan Đăng Lưu, cuộc đấu tranh đã giành thắng lợi to lớn, biến Viện Dân
biểu thành diễn đàn đấu tranh công khai của Đảng hướng tới các mục tiêu đòi các
quyền tự do, dân chủ: tập hợp Nhân dân đấu tranh đòi giảm thuế, tăng thêm quyền
cho Viện Dân biểu, đòi tự do báo chí, thả tù chính trị, tự do nghiệp đoàn,
chống bọn phản động thuộc địa, vạch mặt bọn tham quan ô lại lợi dụng chức quyền
bán nước, hại dân…
Cuối năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai
bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương và bọn tay sai tăng cường áp
bức, bóc lột Nhân dân, đàn áp cách mạng nước ta. Tháng 9/1939, đồng chí Phan
Đăng Lưu được Trung ương phân công phụ trách phong trào các tỉnh Nam Kỳ. Tại
Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, Đồng chí tham gia tích cực vào việc chuyển
hướng chiến lược của Đảng. Cùng với Xứ ủy Nam Kỳ, Đồng chí đã có nhiều đóng góp
quan trọng, đưa phong trào cách mạng Nam Kỳ phát triển lên một bước mới.
Trong nửa đầu năm 1940, trước sự tăng cường
đàn áp, khủng bố của kẻ thù, các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần lượt bị bắt. Ban Chấp hành Trung ương chỉ còn lại một mình đồng chí Phan
Đăng Lưu chèo lái con thuyền cách mạng nước ta. Khó khăn, thử thách to lớn này
đặt lên vai Đồng chí những trọng trách mới, nhất là sau khi đồng chí Võ Văn Tần
- Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ bị địch bắt. Nhiều chỉ thị của Đồng chí, nhân danh Ban Chấp
hành Trung ương được thi hành trong Đảng trên toàn quốc nhằm vận dụng thời cơ,
xiết chặt kỷ luật, củng cố tổ chức đi vào hoạt động bí mật và vận dụng sáng tạo
các phương pháp, hình thức đấu tranh phù hợp trên tinh thần đặt yêu cầu “dân
tộc giải phóng” lên hàng đầu, đặc biệt là chuẩn bị xây dựng và phát triển lực
lượng vũ trang theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu của
Đảng.
Sau khi tạm trì hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Đồng
chí bí mật bắt tay vào chuẩn bị mọi mặt cho Hội nghị tái lập Ban Chấp hành
Trung ương Đảng - Bộ chỉ huy
tối cao mới của Đảng. Đây là trọng trách lớn, có ý nghĩa sống còn của Đảng, của
cách mạng. Trước khi gặp Xứ ủy Bắc Kỳ để thống nhất, công việc chuẩn bị cho Hội nghị do đồng chí Phan Đăng Lưu tự đề ra,
tự chuẩn bị và tự móc nối. Tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy được
tổ chức tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Hội nghị tiến hành cử Ban Chấp hành
lâm thời; đồng chí Trường Chinh được cử làm Quyền Tổng Bí thư của Đảng. Nghị
quyết Hội nghị tiếp tục thực hiện đường lối do Hội nghị Trung ương lần thứ sáu
đã đề ra, tích cực chuẩn bị mọi mặt tiến tới Tổng khởi nghĩa giành lại non sông
đất nước khi thời cơ xuất hiện.
Thành công của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy
có vai trò to lớn của đồng chí Phan Đăng Lưu. Với tầm nhìn chiến
lược, Đồng chí nhận thấy thời cơ khởi nghĩa chưa chín muồi, nếu chưa chuẩn bị
kỹ lưỡng, thống nhất trên toàn quốc đã tiến hành khởi nghĩa riêng lẻ sẽ dẫn đến
thất bại. Tình hình lúc đó đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thật sáng suốt,
kịp thời của Bộ Chỉ huy tối cao của Đảng. Do đó, việc tái lập Ban Chấp hành
Trung ương để lãnh đạo toàn quốc, chuẩn bị mọi mặt, chớp thời cơ đưa cách mạng nước
ta đi tới thắng lợi là sứ mệnh lịch sử cấp bách nhất, cao nhất lúc bấy giờ đặt
lên vai đồng chí Phan Đăng Lưu. Thử thách và trách nhiệm càng nặng nề hơn trong
tình huống không liên lạc được với Quốc tế Cộng sản và Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Có
thể nói, việc thống nhất với Xứ ủy Bắc Kỳ tổ chức thành công Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ bảy là đóng góp quan trọng nhất của đồng chí Phan Đăng Lưu
đối với Đảng ta và cách mạng Việt Nam.
3. Đồng chí Phan Đăng Lưu - Người chiến sĩ tiên
phong trên mặt trận báo chí và văn học cách mạng
Xuất thân trong gia đình ở một miền quê
giàu truyền thống yêu nước, hiếu học và nhân văn, Phan Đăng Lưu sớm bộc lộ phẩm
chất của một tài năng về sự nghiệp bút nghiên. Ngay từ thời tuổi trẻ học đường,
Đồng chí đã sáng tác thơ ca, câu đối đả phá những cảnh
chướng tai gai mắt diễn ra trong xã hội đương thời, thông cảm với Nhân dân bị
đọa đày, đau khổ.
Sự nghiệp cách mạng báo chí của Phan
Đăng Lưu thật sự bắt đầu, sôi nổi và phong phú khi tham gia Đảng Tân Việt. Cuối
năm 1927 đầu năm 1928, để tuyên truyền tư tưởng cách mạng, Đào Duy Anh và những
người lãnh đạo Đảng Tân Việt ở Huế thành lập nhà sách Quan Hải Tùng Thư. Trên
cương vị là Ủy viên Thường vụ Đảng Tân Việt phụ trách tuyên truyền, đồng chí Phan
Đăng Lưu đã dịch và biên soạn nhiều tư liệu quý như: A.B.C Chủ nghĩa Mác,
Dân chủ mới; dịch các cuốn Xã
hội luận, Lịch sử các học thuyết kinh tế… Các cuốn sách và bài viết của Đồng chí đã góp phần
thiết thực thức tỉnh nhiều nhà trí thức, thanh niên, học sinh và thấm dần vào
các tầng lớp Nhân dân lao động.
Trong chốn lao tù, nhận thấy lính gác
ngục là người Êđê, vừa không biết tiếng Kinh, vừa bị kích động hằn thù dân tộc,
chia rẽ Kinh, Thượng, Đồng chí đã kết hợp với một số anh em
tù chính trị bí mật ra tờ “Doãn Đê tù
báo”. Tờ báo được bí mật viết tay, lưu truyền trong nội bộ nhà tù, báo ra
hàng tuần, đọc xong rồi hủy đi, vừa là công cụ giác ngộ lính Êđê, vừa là công
cụ tuyên truyền của Đảng. Đồng thời, Đồng chí còn viết nhiều bài báo tố cáo tội ác của nhà tù
gửi ra bên ngoài.
Tháng 7/1937, Đồng chí cùng nhiều nhà
báo tiến bộ ở Huế triệu tập Hội nghị báo giới Trung Kỳ, tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của các nhà báo dân chủ tiến bộ, hình thành được Mặt trận báo chí dân
chủ Trung Kỳ, đánh bại bọn bồi bút phản động. Hoạt động của Mặt trận báo chí
Trung Kỳ tuy ngắn ngủi nhưng có ý nghĩa đi tiên phong, phất cao ngọn cờ dân chủ
của giới báo chí nước ta lúc bấy giờ mà về sau báo chí Bắc Kỳ và Nam Kỳ còn
tiếp bước. Lịch sử báo chí cách mạng nước ta ghi nhận công lao to lớn này của Đồng chí như một chiến sĩ tiên phong cho dòng báo chí cách
mạng.
Nhận thức rõ báo chí, văn học là những công
cụ đấu tranh sắc bén, đồng chí Phan Đăng Lưu vừa xây dựng, chỉ đạo các tờ báo: Sông
Hương tục bản, Dân, Dân tiến, Dân
muốn; vừa trực tiếp đào tạo, đoàn kết tập hợp lực lượng báo giới, đặc biệt
là các trí thức trẻ. Bản thân Đồng chí cũng là cây bút
chủ lực viết các bài chính luận, tiểu phẩm văn học, bình luận văn học… Trên
bước đường cách mạng, Đồng chí thường xuyên quan tâm bồi dưỡng chính trị và
nghiệp vụ văn học - nghệ thuật cho đội ngũ trí thức trẻ, trong đó có các đồng
chí Trịnh Xuân An, Trịnh Xuân Quang, Hà Thế Hanh, Tố Hữu, Thôi Hữu, Hồng
Chương…
Sự nghiệp báo chí, văn học của đồng chí Phan Đăng Lưu có giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc, góp phần xây dựng nền móng của văn học cách mạng, khái quát những
quan điểm khoa học và cách mạng về trí thức, về văn nghệ sĩ và nền văn học -
nghệ thuật của những người cộng sản, mở đường cho nền văn học - nghệ thuật nước
nhà phát triển.
4. Đồng chí Phan Đăng Lưu - tấm gương sáng
ngời về đạo đức cách mạng
Cuộc đời của đồng chí Phan Đăng Lưu đã để lại tấm
gương đạo đức sáng ngời của một con người tận trung với nước, tận hiếu với dân,
không màng danh lợi. Ở Đồng chí luôn có niềm tin tuyệt đối với Đảng, niềm tin
mãnh liệt vào sự thắng lợi tất yếu của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc. Phẩm chất đạo đức đó đã nuôi dưỡng chí khí chiến đấu, thôi
thúc đồng chí Phan Đăng Lưu luôn
đứng trên thế tiến công cách mạng dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, từ khi còn là một
thanh niên yêu nước đến khi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản trong lao tù đế
quốc và đến tận những giây phút cuối cùng hy sinh anh dũng trên pháp trường
dưới làn đạn của kẻ thù.
Bảo đảm cho sự trường tồn và phát triển của
Đảng là mệnh lệnh mà đồng chí Phan Đăng Lưu luôn nghiêm chỉnh chấp hành, dù
phải hy sinh lợi ích cá nhân. Hành động tiêu biểu cho đức hy sinh ấy là việc Đồng
chí góp phần tiến cử đồng chí Trường Chinh vào chức vụ cao nhất trong Đảng mặc
dù khi đó đồng chí Trường Chinh
mới chỉ là Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ. Đó là minh chứng rõ nét cho tấm gương đạo đức cao
cả hết lòng vì Đảng, vì dân, chí công vô tư của đồng chí Phan Đăng Lưu.
Ở đồng chí Phan Đăng Lưu, lòng yêu nước và
tình thương yêu Nhân dân thống nhất với nhau. Lòng yêu nước xuất phát từ lòng
thương yêu những con người nghèo khổ, cơ hàn và tâm niệm cứu Nhân dân thoát
khỏi cảnh lầm than, nô lệ. Khi được giác ngộ cách mạng, đồng chí Phan Đăng Lưu đã
nhận thức rõ trách nhiệm của mình phải gần gũi Nhân dân, hiểu được tâm tư,
nguyện vọng của Nhân dân để từ đó mở mang trí óc cho Nhân dân, hướng dẫn họ đi
theo con đường cách mạng. Khi còn ở Vinh, Đồng chí luôn tìm dịp để gần gũi,
giác ngộ con đường cách mạng cho những người nông dân, công nhân, thanh niên,
trí thức. Ở Nhà tù Buôn Ma Thuột, Đồng chí tận dụng mọi cơ hội để tuyên truyền
trong các bạn tù, cảm hóa lính gác ngục người Êđê. Ở Huế, Đồng chí thường xuyên
tiếp xúc, thâm nhập, tìm hiểu đời sống và nguyện vọng của Nhân dân lao động.
Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hoạt động bí
mật, công khai hay trong nhà lao đế quốc, Đồng chí luôn đặt công tác đào tạo, xây
dựng, phát triển đội ngũ cán bộ cho Đảng lên hàng đầu. Việc đào tạo cán bộ của Đồng
chí rất linh hoạt, toàn diện: dạy chữ quốc ngữ, khoa học, văn học, báo chí đến
lý luận Mác - Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng và phương pháp hoạt động
cách mạng… tùy trình độ của mỗi lớp, mỗi người mà có chương trình, cách thức
phù hợp. Trong đó, nhiều đồng chí đã trưởng thành và trở thành những cán bộ có
uy tín của Đảng, như
Phan Đăng Tài, Nguyễn Oanh, Nguyễn
Vịnh (Nguyễn Chí Thanh), Tố Hữu, Thôi Hữu, Hồng Chương…
Đồng chí Phan Đăng Lưu cũng thường xuyên gặp
gỡ các tầng lớp trí thức, thanh niên, học sinh, công chức, các nhân sĩ, các nhà
khoa bảng, tu hành để thuyết phục họ đi theo con đường cách mạng của Đảng. Với
học vấn sâu rộng, đức tính khiêm tốn, đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống
giản dị, Phan Đăng Lưu có uy tín lớn và nhận được sự quý trọng của các bậc trí
thức, nhân sĩ dân chủ khi đó, như Ngô
Đạm (Quảng Nam), Đậu Văn Bính (Hà Tĩnh), Nguyễn Đan Quế (Thanh Hóa), Phan Triệu
Khanh (Quảng Trị)… Họ thường trao đổi, tham khảo ý kiến của Phan Đăng Lưu mặc dù biết Đồng chí là một
người cộng sản đã từng thụ án ở Buôn
Ma Thuột. Nhiều nhà tư sản dân tộc, như Võ Đình Thụy, Võ Đình Dung (Quảng
Ngãi)… cũng tìm đến Phan Đăng Lưu trao đổi ý kiến về thời cuộc, coi Đồng chí
như “nhà cố vấn” chính trị của mình. Những cống hiến to lớn của đồng chí Phan Đăng Lưu cho Đảng, cho cách mạng là kết
quả tất yếu của việc cần kiệm tích lũy vốn hiểu biết sâu rộng trên cơ sở miệt
mài học tập, lao động và hoạt động cách mạng.
Ở đồng chí Phan Đăng Lưu, tấm gương đạo đức
cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư luôn thống nhất và là sự biểu hiện toàn
diện, cụ thể của tấm gương đạo đức tận trung với nước, tận hiếu với dân. Những
ngày cuối đời trong xà lim án chém, đồng chí Phan Đăng Lưu vẫn linh hoạt, sáng
tạo, tổ chức trao đổi, đúc rút kinh nghiệm về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ với các
đồng chí trong tù; vẫn hết lòng chăm sóc, thương yêu những đồng chí bị kẻ thù
tra tấn dã man, tàn bạo; vẫn truyền và khơi dậy ý chí bất khuất, kiên cường với
niềm lạc quan tin tưởng vào ngày toàn thắng của cách mạng cho những đồng chí
còn ở lại.
Cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt của
đồng chí Phan Đăng Lưu tuy ngắn ngủi nhưng những đóng góp của Đồng chí cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc rất quan trọng và to lớn. Nhắc đến Phan
Đăng Lưu là nhắc đến người chiến sĩ cộng sản kiên cường, mẫu mực, có lòng yêu
nước, thương dân sâu sắc, một nhà lãnh đạo cách mạng có tầm nhìn xa trông rộng,
đầy mưu lược, khôn khéo, dũng cảm, kiên cường; một nhà báo, nhà văn, nhà lý
luận tiên phong xuất sắc, tiêu biểu của Đảng và cách mạng nước ta. Những cống
hiến to lớn và tấm gương cộng sản sáng ngời của đồng chí Phan Đăng Lưu được
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và các thế hệ mai sau đời đời trân trọng, ghi
nhớ, biết ơn sâu sắc.
***
Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh
đồng chí Phan Đăng Lưu (05/5/1902 - 05/5/2022) là dịp để chúng ta ôn lại cuộc
đời, tấm gương chiến đấu, hy sinh và những cống hiến to lớn của Đồng chí đối
với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; đồng thời, qua đó tuyên truyền, giáo dục về chủ
nghĩa yêu nước, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời của các cán bộ tiền bối
tiêu biểu để các thế hệ hôm nay học tập, noi theo. Tưởng nhớ và biết ơn sâu
sắc những cống hiến to lớn của đồng chí Phan Đăng Lưu, chúng ta nguyện noi
gương Đồng chí và các nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng, phát huy tinh
thần yêu nước, ra sức học tập, lao động, công tác và chiến đấu, đưa đất nước
vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, góp phần sớm hiện thực hóa khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG