Hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy ban hành Hướng dẫn số
34-HD/BTGTU ngày 05/8/2021 Tuyên truyền kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí
Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2021). Cổng Thông tin điện tử Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy giới thiệu toàn văn bản Hướng dẫn và Đề cương tuyên truyền.
Thực hiện Hướng dẫn số 17-HD/BTGTW, ngày 29/7/2021
của Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy hướng dẫn công tác tuyên truyền kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2021) như sau:
I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
1. Tuyên truyền sâu rộng chiến công và thành tích vẻ
vang của Đường Hồ Chí Minh trên biển; tôn vinh và tri ân công lao, đóng góp to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Thông qua các hoạt động
tuyên truyền kỷ niệm góp phần giáo dục chính trị tư tưởng, củng cố,
bồi đắp niềm tin của Nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới của tỉnh, của đất
nước và hội nhập quốc tế dưới sự lãnh đạo của Đảng; cổ vũ toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực,
tự cường dân tộc ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XVI, Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
3. Các hoạt động tuyên
truyền, kỷ niệm cần đa dạng về nội dung, hình thức, thiết thực, hiệu
quả, đúng quy định, bảo đảm công tác phòng, chống dịch COVID-19, đồng
thời gắn kết với tuyên truyền chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo không khí phấn khởi, thi đua triển khai
thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của tỉnh, của đất nước trong
năm 2021.
II.
NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN
1. Khẳng định chủ trương đúng
đắn, sáng tạo của Đảng trong việc quyết định mở
tuyến đường chiến lược quan trọng trên biển, góp phần làm nên thắng
lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc; tuyên
truyền những chiến công và thành tích vẻ vang của Đường Hồ Chí Minh
trên biển; khẳng định Đường Hồ Chí Minh trên biển là biểu tượng vinh
quang, tự hào của cả dân tộc, hiện thân của ý chí và khát vọng hòa
bình, thống nhất Tổ quốc.
2. Tôn
vinh, tri ân công lao, đóng góp to lớn của cán bộ, chiến sĩ "Đoàn tàu
không số" (Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 - Bộ Tư lệnh Vùng 2 -
Quân chủng Hải quân) và Nhân dân cả nước trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược. Tập trung tuyên truyền, nêu bật sự
mưu trí, sáng tạo, quyết đoán, ý chí quật cường, dũng cảm, sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao của lực lượng vận tải quân sự đường biển; những bài học kinh
nghiệm quý về hoạt động của Đường Hồ Chí Minh trên biển; quá trình
xây dựng lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại”, thật sự là lực lượng
nòng cốt trong thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ biển, đảo Tổ
quốc.
3. Tuyên truyền Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về biển, đảo;
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về
biển, giàu từ biển. Chú trọng làm rõ vai trò, trách nhiệm của các
cấp, các ngành, đoàn thể và mỗi người dân trong bảo vệ, giữ
gìn, khai thác các nguồn lợi từ biển, đặc biệt là vai trò nòng cốt của
Hải quân nhân dân Việt Nam trong nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo,
thềm lục địa của Tổ quốc, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị lần
thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược
phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
4. Tuyên truyền các hoạt động kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí
Minh trên biển diễn ra tại các địa phương trong cả nước, nhất là
các hoạt động lớn, trọng tâm.
III.
CÁC HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM
Các cơ quan, đơn vị, địa phương
căn cứ vào tình hình thực tế và diễn biến của dịch bệnh COVID-19, chỉ đạo và tổ
chức các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm phù hợp, thiết thực, hiệu quả, đảm bảo
an toàn:
1.
Tổ chức tọa đàm, hội thảo, sinh hoạt chuyên đề,...
2.
Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, trang/cổng thông tin điện
tử, phát hành các ấn phẩm tuyên truyền,…
3.
Tổ chức tuyên truyền trong hội nghị báo cáo
viên các cấp, hội nghị sinh hoạt thường kỳ của các tổ chức chính trị - xã hội,
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao,…
4.
Tiếp sóng phim tài liệu; các
chương trình truyền hình trực tiếp Gặp
mặt nhân chứng lịch sử kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường
Hồ Chí Minh trên biển.
IV. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Hướng dẫn
và sao gửi Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí
Minh trên biển; chỉ đạo, định hướng tuyên truyền trên các phương tiện
thông tin đại chúng, hội nghị báo cáo viên, giao ban báo chí... Biên tập, đưa nội
dung tuyên truyền về sự kiện vào nội dung Bản tin Thông báo nội bộ, Cổng Thông
tin điện tử Ban...
Theo
dõi, tổng hợp, đánh giá tình hình thực hiện công tác tuyên truyền của các cơ
quan, đơn vị, địa phương trong tỉnh, báo cáo kịp thời Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Trung ương theo quy định.
2. Thường trực các huyện ủy, thị ủy,
thành uỷ, đảng ủy trực thuộc: Chỉ đạo cơ quan chuyên môn xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm 60
năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển bảo đảm thiết thực, phù hợp.
3. Sở Thông tin và Truyền thông: Quản lý chặt chẽ các hoạt động
thông tin, truyền thông; kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, đưa thông
tin sai trái, xuyên tạc, không đúng định hướng.
4. Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch: Chỉ
đạo, hướng dẫn tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, cổ động trực quan, nhất
là trên panô, áp phích, bảng điện tử, tranh ảnh và các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thể dục - thể thao... chào mừng.
5. Các cơ quan báo chí: Tổ chức tuyên truyền theo định hướng tại
mục II với nội dung, thời
lượng phù hợp, có ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục sâu sắc về sự kiện; đề cao vai
trò, trách nhiệm của người đứng đầu, của Ban biên tập trong kiểm duyệt nội
dung. Lưu ý, việc tuyên truyền phải dựa vào nguồn thông tin, tư liệu chính
thống do các cơ quan có thẩm quyền cung cấp, phát hành; không khai thác những
tư liệu, nội dung nhạy cảm về chính trị, ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao,
những vấn đề có ý kiến khác nhau, dễ bị các thế lực thù địch khai thác, xuyên
tạc, tạo nên những điểm nóng trong dư luận xã hội; trong trường hợp cần thiết
phải thông tin, báo cáo, xin ý kiến Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy trước khi tuyên
truyền.
Đài Phát thanh - Truyền
hình tỉnh tổ chức tiếp sóng, phát sóng Chương trình truyền hình trực tiếp Lễ
kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển
và phim tài liệu.
6. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh: Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức đợt sinh hoạt
chính trị trong các cấp Hội về sự ra
đời và phát triển Đường Hồ Chí Minh trên biển và truyền thống vẻ vang của Đường
Hồ Chí Minh trên biển
Tỉnh Đoàn thanh niên chỉ đạo tổ chức các hình thức tuyên
truyền phù hợp cho đoàn viên, thanh niên; đẩy mạnh các hoạt động giáo dục truyền
thống cho thế hệ trẻ.
V.
MỘT SỐ KHẨU HIỆU TUYÊN TRUYỀN
1.
Nhiệt liệt chào mừng 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 -
23/10/2021)!
2. Đường Hồ Chí Minh trên biển - biểu tượng sáng ngời của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng!
3.
Quyết tâm giữ gìn, bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc!
4.
Tất cả vì biển, đảo quê hương, vì biên cương Tổ quốc!
5.
Chung sức bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam!
6.
Mài sắc ý chí, kiên cường bám biển!
7.
Đảo là nhà, biển cả là quê hương!
8.
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm!
9.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm!
10.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Kỷ niệm 60 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên
biển
(23/10/1961 - 23/10/2021
-----
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN
1.
Sự ra đời Đường Hồ Chí Minh trên biển
Sau
năm 1954, với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, các thế lực cầm quyền của đế
quốc Mỹ và tay sai đã ngang nhiên xóa bỏ hiệp định Giơ-ne-vơ, đưa quân xâm
lược, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, làm
bàn đạp tấn công miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã xác định, con đường
giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực và đề ra chủ trương, nhanh
chóng tổ chức chi viện sức người, sức của, vũ khí từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa
cho chiến trường miền Nam.
Thực
hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, ngày 19/5/1959, “Đoàn công
tác quân sự đặc biệt” (đơn vị tiền thân của Đoàn 559) được thành lập với nhiệm
vụ xây dựng tuyến chi viện chiến lược trên bộ và trên biển cho miền Nam. Đến
tháng 7/1959, Tiểu đoàn 603 trực thuộc Đoàn 559 được thành lập, có nhiệm vụ
nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển bằng đường biển chi viện vũ khí cho chiến
trường miền Nam. Để giữ bí mật, Tiểu đoàn lấy tên là “Tập đoàn đánh cá Sông
Gianh”. Cuối năm 1959, Tiểu đoàn 603 tổ chức chuyến thuyền vượt biển đầu
tiên vào chiến trường Khu V nhưng không thành công, do vậy
Tổng Quân ủy quyết định cho Tiểu đoàn 603 ngừng hoạt động để tìm
phương án mới.
Đầu
năm 1960, cùng với phong trào Đồng khởi Bến Tre, phong trào cách mạng của các
tỉnh đồng bằng Nam Bộ chuyển mạnh lên thế tiến công và trở thành cao trào đồng
khởi rộng khắp. Để đáp ứng yêu cầu vận chuyển vũ khí, hàng hóa chi viện cho
chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ, trong khi vận chuyển đường bộ của Đoàn 559
trên dãy Trường Sơn chưa vươn tới; Tổng Quân ủy tiếp tục chỉ đạo Bộ Tổng Tham
mưu khẩn trương nghiên cứu đề án mới về xây dựng và tổ chức lực lượng vận tải
biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5; Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung
ương Cục miền Nam chỉ đạo các tỉnh ven biển ở miền Trung và Nam Bộ chủ động
chuẩn bị bến, bãi và tổ chức đưa thuyền vượt biển ra miền Bắc, vừa thăm dò, nắm
tình hình địch, nghiên cứu tuyến vận chuyển trên biển, vừa nhận vũ khí để kịp
thời cung cấp cho cách mạng miền Nam.
Từ giữa năm
1961 đến giữa năm 1962, lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh và Bà Rịa đã
cử 5 thuyền gỗ từ miền Nam ra miền Bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp
tế vũ khí và sau đó trực tiếp vận chuyển vũ khí, dẫn đường cho các tàu
tiếp tế giả dạng tàu đánh cá từ Bắc vào Nam. Những chuyến thuyền vận
chuyển thành công là một trong những cơ sở quan trọng để xúc tiến việc
thành lập đoàn vận tải thủy tiếp tế vũ khí cho
miền Nam. Ngày 23/10/1961, Bộ Tổng Tư lệnh ra Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn
759 vận tải thủy, đồng chí Trung tá Đoàn Hồng Phước làm Đoàn trưởng. Lực lượng
của Đoàn ban đầu có 38 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 20 đồng chí thuộc các
thuyền của Bến Tre, Trà Vinh và Liên khu V vừa điều ra. Cuối năm 1961, Đề án
công tác của Đoàn đã được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh thông qua.
Quyết
định thành lập Đoàn 759 thể hiện tầm nhìn chiến lược và sáng tạo của Bộ Chính
trị mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, đánh dấu mốc lịch sử
quan trọng, mở ra bước phát triển mới của tuyến đường vận tải chiến lược trên
biển chi viện cho chiến trường miền Nam. Ngày 23/10 trở thành Ngày truyền thống
của Đoàn 759, tiền thân Lữ đoàn 125, Bộ Tư lệnh Vùng 2 - Quân chủng Hải quân
ngày nay, đồng thời là Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển.
2.
Sự phát triển Đường Hồ Chí Minh trên biển
a) Giai đoạn 1962 - 1965: Táo bạo - bí mật - bất ngờ vận chuyển
chi viện chiến trường, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
của đế quốc Mỹ
Thực
hiện chủ trương của của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, sau khi rút kinh
nghiệm các chuyến vận chuyển đường biển từ Bắc vào Nam chưa thành công, Đoàn
759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh sát, mở đường từ Bắc vào
Nam. Đêm ngày 10/4/1962, thuyền rời cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) đi về hướng Nam;
đến 10 giờ đêm ngày 18/4/1962 cập vào Vàm Lũng (Ngọc Hiển, Cà Mau). Nghiên cứu,
khảo sát bến xong, thuyền Bạc Liêu tiếp tục quay trở ra miền Bắc; chuyến đi
trinh sát, mở đường từ Bắc vào Nam đã thành công.
Trung
tuần tháng 8/1962, Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết “Mở đường vận chuyển
chiến lược trên biển”. Từ đây, Đoàn 759 bước vào một giai đoạn vận chuyển mới,
nhận bàn giao 4 tàu gỗ từ Xưởng đóng tàu I (Hải Phòng) và tiếp nhận bổ sung cán
bộ. Để bảo đảm bí mật cho tuyến đường vận tải đặc biệt, những chiếc tàu của
Đoàn 759 phải cải hoán thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, xen kẽ, trà
trộn vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân địa phương trên biển, tên gọi “Đoàn
tàu không số” được ra đời.
Đêm
11/10/1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng,
đồng chí Bông Văn Dĩa làm Chính trị viên tàu cùng 11 thủy thủ đã rời bến Đồ Sơn
(Hải Phòng); ngày 16/10, tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau), 30 tấn vũ khí từ hậu
phương miền Bắc đã được chuyển đến chiến trường miền Nam an toàn. Sau thắng lợi
chuyến đi đầu tiên, 3 chuyến tiếp theo lần lượt vào Nam. Trong hai tháng, 4
chuyến tàu của Đoàn 759 đã vận chuyển được 111 tấn vũ khí cho Khu 9 an toàn.
Đây là một thắng lợi lớn, góp phần củng cố niềm tin và quyết tâm của quân dân
miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Khi
tuyến đường vận tải biển được khai thông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện biểu
dương khen ngợi, đồng thời nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 hãy nhanh chóng
rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho
đồng bào miền Nam giết giặc.
Những
chuyến tàu vỏ gỗ đi vào Cà Mau thành công, khẳng định chúng ta có thể vận
chuyển bằng đường biển lâu dài, cần phải có những phương tiện vận chuyển tốt
hơn đi trong mọi thời tiết. Quân ủy Trung ương chủ trương nhanh chóng đầu tư,
trang bị cho Đoàn 759 loại tàu vỏ sắt trọng tải từ 50 tấn đến 100 tấn. Cuối năm
1962, Bộ Tổng Tư lệnh đề nghị Xưởng đóng tàu III (Hải Phòng) thuộc Bộ Giao
thông vận tải đảm nhiệm việc đóng tàu vỏ sắt.
Ngày
17/3/1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên do đồng chí Đinh Đạt làm thuyền trưởng,
đồng chí Nguyễn Văn Tiến làm chính trị viên chở 44 tấn vũ khí lên đường đến bến
Trà Vinh an toàn. Nhờ tổ chức tốt, kỷ luật nghiêm, ý thức trách nhiệm cao, tinh
thần vững vàng và trình độ chuyên môn giỏi, những chuyến đi của Đoàn đều hoàn
thành tốt nhiệm vụ và giữ được bí mật. Chỉ trong 1 năm, Đoàn 759 đã thực hiện
29 chuyến hàng vào Nam Bộ, vận chuyển 1.430 tấn vũ khí cho chiến trường, đạt hệ
số vận chuyển cao.
Phát
huy kết quả vận chuyển bằng đường biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ, Bộ
Quốc phòng chỉ thị cho Khu 7 mở bến đón tàu. Đoàn 759 được lệnh chuẩn bị một
tàu chở vũ khí đột phá mở đường mới vào bến Bà Rịa. Đêm 26/9/1963, chiếc tàu gỗ
mang số hiệu 41 do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, đồng chí Đặng Văn
Thanh là Chính trị viên tàu cùng 11 thuỷ thủ, chở 18 tấn vũ khí xuất phát tại
cảng Bính Động (Hải Phòng) đã mở bến vào Bà Rịa thành công, chi viện vũ khí kịp
thời cho Khu 7.
Tháng
8/1963, Quân ủy Trung ương quyết định giao Đoàn 759 trực thuộc Cục Hải quân.
Ngày 29/01/1964, Bộ Quốc phòng quyết định đổi phiên hiệu Đoàn 759 thành Đoàn
125 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Từ năm 1962 - 1964, Đoàn 125 đã huy động 17
tàu vỏ sắt, 3 tàu vỏ gỗ, tổ chức 79 chuyến vận chuyển hơn 4.000 tấn vũ khí
trang bị và cán bộ trung, cao cấp của Đảng và Quân đội vào miền Nam. Tàu của
Đoàn đã cập bến Bạc Liêu (Cà Mau) 43 lần, Bến Tre 17 lần, Trà Vinh 14 lần, Bà
Rịa 2 lần, Phú Yên 2 lần, Bình Định 1 lần. Số vũ khí đã đến chiến trường Nam
Bộ, cực Nam Trung Bộ và Khu 7 đúng lúc, trực tiếp góp phần cùng các lực lượng
vũ trang giành nhiều thắng lợi oanh liệt như chiến thắng Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái
Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã... làm thất bại về căn bản chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy trên chiến trường miền Nam.
Cuối
năm 1964, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Hải quân
nghiên cứu mở rộng tuyến vận tải đường biển vào các bến thuộc địa bàn Khu 5.
Ngày 21/9/1964, Tàu 401 được lệnh lên đường vào Khu 5 và cập bến Lộ
Diêu sáng ngày 01/11/1964, toàn bộ vũ khí được cất giấu an toàn,
do mắc cạn, Tàu 401 bị hỏng nặng và được đốt cháy để xóa dấu vết. Trước tình hình trên, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ
thị: Không sử dụng bến Lộ Diêu nữa mà tìm cách đưa hàng vào bến mới ở Phú Yên.
Chấp
hành chỉ thị của Đại tướng, Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định chọn bến Vũng Rô làm
điểm giao hàng cho chiến trường Phú Yên. Tàu
41 nhận lệnh chở vũ khí cập bến Vũng Rô cả 3 chuyến đều
thắng lợi, an toàn. Có vũ khí từ miền Bắc chuyển vào, tháng 12/1964, Bộ Tư lệnh
Khu V đã mở các đợt tác chiến tiêu diệt quân chủ lực ngụy, hỗ trợ cho quần
chúng nổi dậy phá kìm, diệt ác, giải phóng một số vùng ở đồng bằng Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, góp phần làm chuyển biến cục diện chung trên toàn
Miền.
Công
việc vận chuyển đang tiến triển thuận lợi thì xảy ra sự kiện Tàu 143 bị lộ ở
Vũng Rô ngày 16/2/1965. Con đường vận chuyển chiến lược trên biển
không còn giữ được bí mật nữa. Biết rõ ý đồ của ta, địch tăng cường tuần tiễu,
phong tỏa và kiểm soát chặt chẽ. Việc vận chuyển vũ khí, hàng hóa quân sự chi
viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển gặp muôn vàn khó khăn, Quân ủy
Trung ương quyết định tạm ngừng việc vận chuyển bằng đường biển vào miền Nam để
nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển mới, phù hợp với tình hình.
b)
Giai đoạn 1965 - 1972: Vượt qua thử thách ác liệt, khắc phục khó khăn, tiếp tục
vận chuyển chi viện cho chiến trường, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ
Trong
điều kiện yếu tố bí mật, bất ngờ của tuyến đường biển không còn và bị địch kiềm
toả gắt gao, công tác chuẩn bị cho chuyến mở đường được tiến hành khẩn trương,
chặt chẽ, chu đáo. Đoàn 125 giao cho Tàu 42 gồm 16 thuỷ thủ do đồng chí Nguyễn
Văn Cứng làm Thuyền trưởng và đồng chí Nguyễn Ngọc Ẩn làm Chính trị viên tàu.
Đêm 15/10/1965, Tàu 42 chở 60 tấn vũ khí nhổ neo, xuất bến; đêm 24/10, Tàu cập
bến Rạch Kiến Vàng (Cà Mau) an toàn. Tiếp theo các Tàu 69 và Tàu 68 lần lượt
lên đường thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao.
Trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, từ ngày 23
đến ngày 27/02/1968, Bộ Tư lệnh Hải quân sử dụng 4 tàu: 165, 56, 54 và 235 lên
đường làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường và làm phân tán sự đối phó của
địch.
Kết
thúc giai đoạn vận chuyển cực kỳ ác liệt, từ tháng 10/1965 đến tháng 3/1968,
Đoàn 125 đã tổ chức 37 chuyến vận chuyển, trong đó có 17 chuyến thành công, chở
310 tấn vũ khí cho chiến trường.
Trước
thất bại trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc và tổn thất nặng nề trên chiến
trường miền Nam, ngày 31/3/1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Theo chỉ
thị của Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 tham gia “Chiến dịch Vận chuyển
VT5” (vận chuyển hàng hóa, vũ khí từ Hải Phòng vào Sông Gianh - Quảng Bình) và
từ đây sẽ được các lực lượng vận chuyển vào chiến trường miền Nam bằng đường
bộ. Với phương châm chỉ đạo: “Chuẩn bị chu đáo, tranh thủ thời cơ, làm nhanh,
gọn, liên tục, an toàn, đi gần bờ, dựa vào dân”, từ ngày 03/11/1968
đến ngày 29/01/1969, vượt qua hàng rào phong tỏa dày đặc thủy lôi và bom từ
trường của Mỹ, Đoàn 125 đã huy động 364 lượt tàu, vận chuyển 21.737 tấn hàng,
đạt 217,37% kế hoạch.
Tháng
02/1969, Đoàn 125 tiếp tục “Chiến dịch Vận chuyển VT5”, với 187 chuyến tàu, vận
chuyển 10.889 tấn hàng hóa, vượt chỉ tiêu 1.000 tấn, góp phần chi viện cho
chiến trường, đặc biệt là chiến trường Thừa Thiên - Huế và Mặt trận Khu 5. Tết
Nguyên đán năm 1969, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 vinh dự được Chủ tịch nước Tôn
Đức Thắng gửi tặng lẵng hoa và đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm, chúc tết
đơn vị.
Tháng
7/1969, sau khi rút kinh nghiệm từ những chuyến đi thành công và không thành
công, Đoàn 125 sử dụng Tàu 42 cải trang thành tàu nghiên cứu biển, đi trinh sát
để tìm phương thức vận chuyển mới. Từ kết quả của chuyến đi trinh sát, Quân ủy
Trung ương và Bộ Quốc phòng nhận định tình hình và quyết định chuẩn bị đợt vận
chuyển lớn vào chiến trường Khu 5, 6, 8 và Khu 9. Năm 1970, Đoàn 125 đã tổ chức
15 chuyến đi, song chỉ có 5 chuyến vào được bến, 9 chuyến gặp địch tuần tra,
kiểm soát gắt gao, để giữ bí mật của con đường chiến lược, đành phải quay về,
một chuyến buộc phải phá tàu.
Ngày
27/7/1971, Quân khu 9 thành lập đoàn vận tải S950, đến năm 1972 đổi tên là Đoàn
371. Từ năm 1971 đến năm 1972, Đoàn đã tổ chức 37 chuyến đi, vận chuyển được 620
tấn vũ khí vào chiến trường Khu 9 an toàn.
Từ tháng 10/1971 đến tháng 4/1972, Đoàn 125 tổ chức liên tục 20
chuyến, nhưng chỉ có một chuyến tàu tới đích. Kết quả tuy hạn chế, nhưng đã góp
phần thúc đẩy sự hoàn thiện của “phương thức vận tải công khai” trong giai
đoạn sau.
Giai đoạn 1965 - 1972, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 phải đối mặt với
những thử thách gay go, ác liệt. Trong đội ngũ trung kiên của Đoàn, xuất hiện
nhiều tấm gương hy sinh anh dũng, nhiều con tàu ra đi không trở lại, nhiều đồng
chí, đồng đội đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi biển cả mênh mông. Con đường vận chuyển
trên biển trở thành một kỳ tích, huyền thoại, góp phần cùng quân và dân miền
Nam đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”
của đế quốc Mỹ.
c)
Giai đoạn 1973 - 1975: Tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước
Để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Đoàn 125 tiếp tục củng cố tổ chức, xây dựng lực
lượng, thành lập thêm tiểu đoàn, tiếp nhận tàu mới, tăng cường huấn luyện nâng
cao trình độ mọi mặt và rèn luyện ý chí chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ, sẵn
sàng lên đường khi có lệnh.
Với
tinh thần trách nhiệm cao, trong 2 năm 1973 và 1974, Đoàn đã huy động 380 lượt
tàu ra khơi, chuyên chở trên 43.000 tấn hàng, đưa 2.042 lượt cán bộ, chiến sĩ
từ hậu phương ra tiền tuyến và từ đất liền ra các đảo, vượt qua chặng đường
158.292 hải lý an toàn.
Cuối
năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ có lợi cho ta, Bộ
Tổng Tham mưu chỉ thị cho Đoàn 125 vận chuyển vũ khí và bộ đội vào sâu hơn nữa,
sát hơn nữa nơi ta mở chiến dịch. Đoàn 125 đã huy động toàn bộ lực lượng thực
hiện đợt vận chuyển binh lực đột kích chủ yếu vào chiến trường (mật danh T5) và
vận chuyển phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với tinh thần “Thần tốc, táo
bạo chở người và vũ khí vào mặt trận”. Trong tháng 3,4/1975, Đoàn đã vận chuyển
17.473 cán bộ, chiến sĩ các đơn vị chủ lực vào chiến trường; 40 xe tăng và
7.886 tấn vũ khí, nhiên liệu... góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Ngày
04/4/1975, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Hải quân khẩn trương chuẩn
bị lực lượng để giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đoàn 125 nhanh
chóng thành lập một biên đội gồm 3 tàu: Tàu 673, 674, 675, hành quân từ Hải
Phòng vào Đà Nẵng chở Đoàn 126 Bộ đội Đặc công Hải quân và một bộ phận của Tiểu
đoàn 471 Đặc công Quân khu 5 ra giải phóng đảo. Từ ngày 14-29/4/1975, các
lực lượng của ta đã nhanh chóng giải phóng và tiếp quản các đảo Song Tử Tây,
Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa lớn. Tiếp đó, Đoàn 125 tham gia giải
phóng một số đảo ở miền Trung và vùng biển Tây Nam.
d)
Giai đoạn 1975 - nay: Tiếp tục tham gia vận chuyển và chiến đấu, góp phần xây
dựng, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ
quốc và hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang
Đất
nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu lúc này của
Đoàn 125 là vận tải cho các tuyến đảo xa vừa mới giải phóng và phục vụ đi lại
của cán bộ, Nhân dân 2 miền Nam - Bắc, trong đó nhiệm vụ vận chuyển cho Trường
Sa được đặt lên hàng đầu. Từ tháng 5/1975 đến hết năm 1975, Đoàn 125 đã huy
động 121 lần chiếc tàu, hành trình 64.856 hải lý, chở 40.809 tấn hàng và 14.762
lượt người an toàn.
Ngày
26/10/1975, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 142-QĐ/QP “Về tổ chức lực lượng Lữ đoàn 172”, trong đó Đoàn 125 đổi tên thành Hải đoàn 125 và
sáp nhập vào Lữ đoàn 172. Năm 1976, lần đầu tiên chiến dịch vận
chuyển cho quần đảo Trường Sa được thực hiện. Hải đoàn 125 đã huy động 11 lượt
tàu, đi 22 chuyến, chở 2.300 tấn hàng ra đảo và làm nhiệm vụ cắm mốc chủ quyền,
chở các tù chính trị từ đảo Phú Quốc về đất liền an toàn.
Từ năm
1976 - 1981, Hải đoàn 125 đã huy động 127 lần chuyến tàu, chở 23.214
tấn hàng và 6.696 lượt cán bộ, chiến sĩ từ đất liền ra đảo, góp phần tăng cường
sức mạnh phòng thủ đảo, ổn định một bước nơi ăn ở, sinh hoạt của bộ đội trên
các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Đồng thời, trong 2 năm (1978 và 1979),
Hải đoàn 125 đã tổ chức 48 chuyến, vận chuyển hàng nghìn tấn vật liệu xây dựng
công trình chiến đấu, hàng trăm tấn vật chất hậu cần phục vụ sinh hoạt cho bộ
đội trên các đảo dọc tuyến Đông Bắc, trọng tâm là đảo Bạch Long Vĩ, Vạn
Hoa.
Trong
cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, lực lượng vận tải quân sự Quân
chủng Hải quân đã tổ chức 139 lần chuyến tàu, chở 19.790 tấn hàng hóa quân
sự và 25.151 lượt cán bộ, chiến sĩ ra chiến trường và đổ bộ chiến đấu, làm
nhiệm vụ quốc tế trong chiến dịch Tà Lơn, cùng các lực lượng vũ trang cách mạng
Campuchia thực hiện cuộc tiến công và nổi dậy, đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn
Pốt, giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, tái thiết đất nước.
Để
phù hợp với nhiệm vụ vận tải chi viện đảo trong tình hình mới, ngày 12/02/1979,
Hải đoàn 125 được Bộ Quốc phòng quyết định nâng cấp thành Lữ đoàn 125 thuộc Bộ
Tư lệnh Hải quân, làm nhiệm vụ vận tải quân sự, đánh dấu một giai đoạn phát
triển và trưởng thành mới của đơn vị.
Sau
thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới và làm nghĩa vụ quốc tế, việc
tăng cường khả năng phòng thủ đất nước nói chung và phòng thủ biển, đảo nói
riêng, nhất là ở quần đảo Trường Sa được đặc biệt coi trọng. Để nâng cao hiệu
quả điều hành công tác vận chuyển cho Trường Sa, bắt đầu từ mùa vận chuyển năm
1981, Quân chủng Hải quân đã áp dụng phương thức khoán khối lượng vận chuyển
cho từng tàu và từng hải đội. Phong trào thi đua quay vòng, tăng chuyến, bảo
đảm an toàn tuyệt đối cho người và phương tiện đã diễn ra sôi nổi giữa các tàu.
Tổng kết 5 năm (1980 - 1985) lực lượng vận tải quân sự của Quân chủng đã vận
chuyển 652.530 tấn hàng hóa, vật liệu xây dựng cho các đảo xa và các đơn vị trong
Quân chủng (Lữ đoàn 125 đã huy động 993 lần chuyến tàu vận chuyển cho Trường
Sa, chở 112.932 tấn hàng hóa, vũ khí).
Cuối
năm 1987 đầu năm 1988, tình hình trên vùng biển quần đảo Trường Sa trở nên căng
thẳng và phức tạp; thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và nhiệm vụ
của Bộ Quốc phòng giao, với tinh thần “Tất cả vì Trường Sa thân yêu”, cán bộ,
chiến sĩ trên các tàu vận tải đã chạy đua với thời gian, vượt qua mọi hiểm
nguy, sóng gió; khảo sát, thăm dò, vận tải và chốt giữ đảo, cùng các lực lượng
trong Quân chủng tăng cường sức mạnh phòng thủ trên các đảo chìm và đảo nổi.
Năm 1988, các lực lượng vận tải quân sự trong Quân chủng vận
chuyển chiến đấu với khối lượng tăng gấp 7 lần so với năm 1987 và hoàn thành kế
hoạch vận chuyển 46.300 tấn hàng phục vụ cho chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu,
129.453 tấn hàng phục vụ cho sinh hoạt thường xuyên, đạt khối lượng vận chuyển
44.438.686 tấn (Lữ đoàn 125 đã huy động 318 lần chuyến tàu, vận chuyển 22.564
tấn).
Năm
1989, thực hiện Hiệp ước ký kết giữa hai Nhà nước Việt Nam và Campuchia, lực
lượng tàu vận tải quân sự Hải quân, trong đó có Lữ đoàn 125 đã hoàn thành
thắng lợi 8 đợt vận chuyển quân tình nguyện Việt Nam từ Campuchia về nước, bảo
đảm an toàn tuyệt đối về người và phương tiện.
Những năm gần đây, các lực lượng vận tải quân sự trong Quân chủng
được bổ sung hàng chục tàu vận tải đóng mới có trang bị đồng bộ, có trọng tải
lớn để thay thế số tàu nhỏ, trọng tải ít. Từ năm 2000 đến nay, lực lượng
vận tải quân sự Hải quân đã vượt qua sóng gió và mọi khó khăn thử thách, vận
chuyển hàng triệu tấn hàng, trung bình hằng năm hoàn thành từ 100% đến 105% kế
hoạch. Riêng Lữ đoàn 125, từ năm 2011 đến 2020 đã tổ chức 385 lần chuyến, chở
293.390 tấn hàng hóa các loại; đưa, đón và phục vụ 2.493 lượt người, hành trình
281.312 hải lý an toàn.
Cùng
với thực hiện nhiệm vụ vận tải biển, các tàu vận tải Hải quân đã tham gia nhiều
chuyến trực bảo vệ chủ quyền trên biển, kịp thời phát hiện sớm những vấn đề nảy
sinh, chủ động đấu tranh, ngăn chặn tàu thuyền nước ngoài vi phạm chủ quyền
vùng biển của nước ta, thực hiện đúng đối sách, kiên quyết trong bảo vệ chủ
quyền, giữ vững môi trường hòa bình; thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống bão
lụt, cứu hộ, cứu nạn trên biển, góp phần giữ vững và phát huy truyền thống tốt
đẹp, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng Nhân dân.
II. TRUYỀN THỐNG VẺ VANG CỦA ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN
Đường
Hồ Chí Minh trên biển là một thiên anh hùng ca bất tử, một bộ phận quan trọng
của hệ thống vận tải quân sự chiến lược trong cuộc kháng chiến chống xâm lược,
giải phóng đất nước, xây dựng nên truyền thống vẻ vang.
Một
là, trung
thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân;
nêu cao ý chí quật cường, dũng cảm; khát vọng độc lập, tự do và niềm tin vào
thắng lợi cuối cùng; sẵn sàng xả thân chiến đấu hy sinh để hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao.
Thực
hiện quyết tâm chiến lược của Đảng mở đường vận chuyển chi viện cho chiến
trường miền Nam, lực lượng vận tải quân sự đường biển đã nêu cao ý chí
quật cường, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, thử thách ác liệt và chiến
thắng vẻ vang. Tiêu biểu như Tàu 41, 42, 154... các đồng chí Bông Văn Dĩa, Phan
Văn Nhờ (tức Tư Mau), Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Văn Hiệu... là điển hình của
những tập thể, cá nhân anh hùng; và biết bao người con ưu tú của Tổ quốc đã anh
dũng hy sinh ở lại với con đường biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ đã làm
rạng rỡ truyền thống vẻ vang của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng, góp phần
to lớn vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai
là, phát
huy sức mạnh tổng hợp, chỉ huy tập trung thống nhất, hiệp đồng chặt chẽ với các
lực lượng, chính quyền và Nhân dân các địa phương, sự giúp đỡ của bạn bè quốc
tế để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Công
tác vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam là công việc vô cùng khó
khăn, ác liệt, nhưng với tinh thần quả cảm và trình độ nghiệp vụ tinh thông,
trình độ tổ chức, chỉ huy thống nhất, kiên quyết, bí mật, hiệp đồng chặt chẽ,
kết hợp chiến thuật với kỹ thuật, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt; cán
bộ, chiến sĩ tuyến vận tải biển của Hải quân nhân dân Việt Nam đã được sự đùm
bọc, chở che của các lực lượng, chính quyền và Nhân dân các địa phương hai miền
Nam - Bắc; được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế trong chuyên chở, tiếp nhận hàng
hóa, vũ khí, cung cấp lương thực, thực phẩm, sửa chữa tàu, thuyền, cấp cứu cán
bộ, chiến sĩ bị thương, ốm đau... Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp, làm nên huyền thoại của một con Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Ba
là, nêu cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; đoàn kết, thống
nhất, kỷ luật nghiêm minh; nắm vững khoa học kỹ thuật; khắc phục khó khăn, phá
thế bao vây của địch; linh hoạt, mưu trí, sáng tạo, liên tục tiến công, quyết
chiến, quyết thắng; tìm ra nhiều phương thức vận chuyển có hiệu quả.
Ra
đời và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày đầu lực
lượng vận tải quân sự trên biển chỉ có 4 tàu gỗ thô sơ gắn máy và 38 cán bộ,
chiến sĩ làm nòng cốt, cán bộ, với trang bị hàng hải thô sơ, nhưng bằng trình
độ và kinh nghiệm dày dạn, đã nắm vững kỹ thuật điều khiển tàu và khả năng phán
đoán thời tiết, nắm vững địa hình, hàng hải thiên văn, giữ nghiêm kỷ luật chiến
trường; mưu trí, khéo léo kết hợp với cải dạng, ngụy trang, nghi binh, tạo nên
yếu tố bí mật, bất ngờ; kết hợp giữa hoạt động bí mật và công khai, giữa du
kích và hiện đại, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế, sáng tạo ra chiến
thuật độc đáo trong vận tải. Sau một thời gian hoạt động đã trở thành lữ đoàn
vận tải, đảm đương hướng chiến lược trên biển, với những trang bị từng bước
hiện đại, đưa vũ khí đạn dược và đưa, đón cán bộ, chiến sĩ vào các chiến trường
đúng lúc, đúng thời cơ; góp phần duy trì, phát triển chiến tranh cách mạng, làm
nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với những thành
tích xuất sắc đã đạt được, tháng 9/1963, Đoàn 759 đã được tặng thưởng Huân
chương Chiến công hạng Hai; Tàu 41 được tặng Huân chương Quân công hạng Nhất;
các tàu 43, 54, 55 và 56 được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất; các tàu
42, 67 và 68 được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhì. Đoàn
125 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất ngày
30/4/1966, Danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân lần thứ
nhất ngày 01/01/1967 và lần thứ hai ngày 03/6/1976. Tổng kết đợt hoạt động
“Chiến dịch CQ-88” (năm 1988), Lữ đoàn 125 có 2 tập thể: Tàu HQ505, tàu HQ931
và 1 cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Lữ đoàn 125 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất (năm
2011), Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì (năm 2016).
III.
PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT
NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Trong
những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến hết sức nhanh
chóng, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,
song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các
nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp.
Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, quyết
liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên
Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Ở
trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín
quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch tiếp tục tăng
cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ chủ
quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc và giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định trên các vùng biển, đảo đã và đang đặt ra những yêu cầu
mới. Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao, đòi
hỏi cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, cán bộ, đảng viên và các lực
lượng làm nhiệm vụ trên biển, đảo cần tập trung thực hiện tốt những nội
dung cơ bản sau:
Một
là, tổ chức nghiên cứu, quán triệt,
học tập, tuyên truyền và triển khai thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về biển, đảo; phấn đấu
đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững,
thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với
bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa
bình, ổn định cho phát triển.
Hai là, tích
cực tham gia xây dựng nền quốc phòng, an ninh, đối ngoại vùng biển và ven biển
vững mạnh. Phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững độc lập chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời của Tổ quốc. Kết
hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý,
kinh tế, quốc phòng trong quản lý, bảo vệ vùng trời, vùng biển, đảo, thềm lục
địa của Tổ quốc. Phát triển kinh tế gắn liền với xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên các vùng biển, đảo. Có chính
sách thu hút, khuyến khích nhân dân ra đảo định cư lâu dài và làm ăn dài ngày
trên biển, bảo đảm vừa phát triển kinh tế, vừa làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển
của Tổ quốc.
Ba
là, xây dựng các lực lượng
làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của của Tổ quốc vững mạnh
toàn diện theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại; nòng cốt
là Hải quân nhân dân Việt Nam, Cảnh sát biển Việt Nam, Bộ đội Biên
phòng, Dân quân tự vệ biển và lực lượng Kiểm ngư vững mạnh. Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, trọng tâm là chi bộ và vai
trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên làm nhiệm vụ trên các vùng
biển, đảo.
Bốn
là, tích cực, chủ động phối
hợp với các lực lượng thực hiện tốt nhiệm vụ giúp dân phòng, tránh, khắc phục
hậu quả thiên tai, bão lũ và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, chăm sóc sức khỏe, giúp
đỡ Nhân dân làm ăn trên các vùng biển và ổn định đời sống nhân dân trên
các đảo. Thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với các gia đình có thân
nhân, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh, chủ quyền biển đảo của Tổ
quốc.
Năm
là, quán triệt và thực hiện
tốt đường lối đối ngoại của Đảng, nhất là hoạt động đối ngoại quốc phòng, tôn
trọng chủ quyền và lợi ích hợp pháp của các nước trên biển. Kiên quyết, kiên
trì giải quyết tranh chấp, bất đồng trên biển, đảo bằng biện pháp hòa bình,
trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
năm 1982. Tham gia tốt các hoạt động giao lưu với hải quân các nước trong khu
vực và trên thế giới; phối hợp hiệp đồng chặt chẽ trong tuần tra, diễn tập, tìm
kiếm cứu hộ, cứu nạn, chống cướp biển... nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định, trật tự, an ninh và phát triển kinh tế biển.
Sáu
là, tiếp tục phát huy truyền
thống Đường Hồ Chí Minh trên biển, nêu cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường; chủ động, sáng tạo, cần kiệm lao động sản xuất, tạo ra nhiều của cải vật
chất cho xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho bộ đội; làm chủ vũ
khí, trang bị kỹ thuật hiện có, thực hiện tốt Cuộc vận động “Quản lý, khai thác
vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao
thông”.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG - TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ QĐND VIỆT NAM